Giới thiệu tóm tắt nội dung và một số điểm mới của Luật Hôn nhân & gia đình
Ngày 19/6/2014, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội nước CHXHCNVN khóa XIII đã thông qua Luật HN&GĐ. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 (thay thế Luật HN&GĐ năm 2000).
Luật gồm 09 chương, 133 Điều, quy định về chế độ hôn nhân và gia đình, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ HN & GĐ.
Luật mới được kế thừa các nguyên tắc cơ bản, các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; sửa đổi các quy định đã có nhiều bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành, đồng thời bổ sung các quy định để giải quyết các vấn đề thực tiễn phát sinh phù hợp với quá trình thay đổi của gia đình hiện đại và đờisống xã hội; bảo đảm tính khả thi của Luật hôn nhân và gia đình.
Đây là văn bản pháp lý quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc nhằm nâng cao nhận thức và đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, tăng cường và phát huy ý thức trách nhiệm, thái độ tôn trọ ng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của gia đình VN.
Luật HN&GĐ năm2014 có những điểm mới cơ bản sau:
Chương I. Những quy định chung:
- Bổ sung quy định giải thích một số từ ngữ như: chung sống như vợ chồng, kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo,
- Luật HNGĐ 2000 quy định chỉ có 05 khoản cấm nhưng Luật mới Bổ sung các hành vi bị cấm như: mang thai hộvì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, bạo lực gia đình, mua bán người, bóc lột sức lao động,
Chương II. Kết hôn:
a) Về điều kiện kết hôn:
- Tại Khoản 1, Điều 8 quy định Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo 04 điều kiện sau:
ĐK 1. Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18tuổi trở lên.
Đây cũng là điểm mới của Luật HN và HĐ năm 2014, trên cơ sở kế thừa luật hiện hành, tuổi kết hôn vẫn là một trong những điều kiện để kết hôn nhưng được tính theo nguyên tắc tròn đủ. Luật mới nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ18 tuổi và nam là đủ 20 tuổi thay vì vừa bước qua tuổi 18, tuổi 20 như quy định tại Luật HNGĐ 2000
Sở dĩ có việc thay đổi này là vì nếu quy định tuổi kết hôn của nữ là vừa bước qua tuổi 18 thì không thống nhất với Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự. Đólà, theo Bộ luật Dân sự người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý Còn theo Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn là không hợp lý, thiếu đồng bộ và làm hạn chế một số quyền của người nữ khi xác lập các giao dịch như quyền yêu cầu ly hôn thì phải có người đại diện).
ĐK 2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
ĐK 3. Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
ĐK 4. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn được quy định tại các điểm a, b, c và d Khoản2, Điều 5 của Luật như: kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác
- Ngoài ra, tại khoản 2, Điều 8, Luật mới quy định: Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Đây cũng là điểm mới của Luật HN& GĐ năm 2014 vì Luật HNGĐ 2000 quy định cấm kết hôn đồng giới; theo luật mới, từ 01/01/2015 bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính nhưng không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Như vậy những người đồng giới tính vẫn có thể kết hôn tuy nhiên sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Đây cũng được coi là một bước tiến nhỏ trong việc nhìn nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính của nhà nước ta trong tình hình xã hội hiện nay.
b) Về đăng ký kết hôn:
- Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật HN & GĐ và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định thì không có giá trị pháp lý.
- Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn.
Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền thì khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ ngày đăng ký kết hôn trước.
c) Ngoài ra, Luật mới còn bổ sung về quy định về giải quyết hậu quả của việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (quy định từ Điều 14,15,16), theo đó:
Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN và chung sống với nhau như vợ chồng mà khôngđăng ký kết hôn thì giữa họ không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Quyền, nghĩa vụ đối với con được giải quyết theo quy định của Luật HN&GĐ về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ và con.
Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên, nếu không có thỏathuận thì giải quyết theo quy định của BLDS và các quy định pháp luật khác có liên quan nhưng bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con.
Chương III. Quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng:
Tại Điều 19 Luật mới bổ sung quy định Tình nghĩa vợ chồng: vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế,văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.
* Về tài sản chung của vợ, chồng:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy địnhchưa rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch vềtài sản chung, tài sản riêng.
Nay, Luật HNGĐ 2014 quy định tất cả các trường hợp liên quan đếntài sản chung của vợ chồng đều phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực. Điều này sẽ làm giảm thiểu sự tranh chấp tài sản sauly hôn của các cặp vợ chồng trong tình hình hiện nay. Cụ thể:
Tại Khoản 1 Điều 33 Luật mới bổ sung quy định hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳhôn nhân là tài sản chung của vợ chồng.
Tại Khoản 2 Điều 35: Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng nếu đối tượng của giao dịch là bất động sản, động sản mà theo quy định củapháp luật phải đăng ký quyền sở hữu.
Tại Điều 36 quy định: Trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản.
Chương IV: Chấm dứt hôn nhân:
a) Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn được quy định tại Điều 51, cụ thể:
- Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
- Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
- Chồng không có quyền nêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi conưới 12 tháng tuổi.
So với Luật HN-GĐ năm 2000, Luật mới bổ sung thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn.
Theo đó, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì từ ngày 1-1-2015, cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Chồng không có quyền ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng (Khoản 2 Điều 51).
b) Quy định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
- Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
- Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con (đây là điểm mới, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con).
- Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
ChươngV: Quan hệ giữa cha mẹ và con:
Luật HN-GĐ 2014 bổ sung quy định về xác định cha, mẹ, con. Cụ thể:
Điều 93 quy định: người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ đượ cáp dụng theo quy định về xác định con chung của vợ chồng.
Điều 94 quy định: con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.
Ngoài ra, Luật mới chính thức cho phép mang thai hộ, đây là quy định mới, việc bổ sung quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thể hiện tính nhân văn sâu sắc, đáp ứng nhu cầu làm cha mẹ chính đáng của các cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, tuy nhiên việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải đáp ứng đủ các điều kiện được quy định quy định cụ thể tại Điều 95 của Luật mới như:
- Phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
- Vợ chồng chỉ được quyền nhờ người mang thai hộ khi có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
-Người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Tin cùng chuyên mục
-
Tuyên truyền điểm mới của luật căn cước công dân năm 2023
05/07/2024 09:15:44 -
BÀI TUYÊN TRUYỀN TÓM TẮT ĐIỂM MỚI LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
11/04/2024 10:07:03 -
Tuyên truyền tóm tắt Luật dân chủ ở cơ sở
05/04/2024 10:24:17 -
BÀI TUYÊN TRUYỀN AN TOÀN GIAO THÔNG CHO HỌC SINH
01/04/2024 15:08:38
Giới thiệu tóm tắt nội dung và một số điểm mới của Luật Hôn nhân & gia đình
Ngày 19/6/2014, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội nước CHXHCNVN khóa XIII đã thông qua Luật HN&GĐ. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 (thay thế Luật HN&GĐ năm 2000).
Luật gồm 09 chương, 133 Điều, quy định về chế độ hôn nhân và gia đình, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ HN & GĐ.
Luật mới được kế thừa các nguyên tắc cơ bản, các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; sửa đổi các quy định đã có nhiều bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành, đồng thời bổ sung các quy định để giải quyết các vấn đề thực tiễn phát sinh phù hợp với quá trình thay đổi của gia đình hiện đại và đờisống xã hội; bảo đảm tính khả thi của Luật hôn nhân và gia đình.
Đây là văn bản pháp lý quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc nhằm nâng cao nhận thức và đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, tăng cường và phát huy ý thức trách nhiệm, thái độ tôn trọ ng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của gia đình VN.
Luật HN&GĐ năm2014 có những điểm mới cơ bản sau:
Chương I. Những quy định chung:
- Bổ sung quy định giải thích một số từ ngữ như: chung sống như vợ chồng, kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo,
- Luật HNGĐ 2000 quy định chỉ có 05 khoản cấm nhưng Luật mới Bổ sung các hành vi bị cấm như: mang thai hộvì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, bạo lực gia đình, mua bán người, bóc lột sức lao động,
Chương II. Kết hôn:
a) Về điều kiện kết hôn:
- Tại Khoản 1, Điều 8 quy định Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo 04 điều kiện sau:
ĐK 1. Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18tuổi trở lên.
Đây cũng là điểm mới của Luật HN và HĐ năm 2014, trên cơ sở kế thừa luật hiện hành, tuổi kết hôn vẫn là một trong những điều kiện để kết hôn nhưng được tính theo nguyên tắc tròn đủ. Luật mới nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ18 tuổi và nam là đủ 20 tuổi thay vì vừa bước qua tuổi 18, tuổi 20 như quy định tại Luật HNGĐ 2000
Sở dĩ có việc thay đổi này là vì nếu quy định tuổi kết hôn của nữ là vừa bước qua tuổi 18 thì không thống nhất với Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự. Đólà, theo Bộ luật Dân sự người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý Còn theo Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn là không hợp lý, thiếu đồng bộ và làm hạn chế một số quyền của người nữ khi xác lập các giao dịch như quyền yêu cầu ly hôn thì phải có người đại diện).
ĐK 2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
ĐK 3. Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
ĐK 4. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn được quy định tại các điểm a, b, c và d Khoản2, Điều 5 của Luật như: kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác
- Ngoài ra, tại khoản 2, Điều 8, Luật mới quy định: Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Đây cũng là điểm mới của Luật HN& GĐ năm 2014 vì Luật HNGĐ 2000 quy định cấm kết hôn đồng giới; theo luật mới, từ 01/01/2015 bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính nhưng không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Như vậy những người đồng giới tính vẫn có thể kết hôn tuy nhiên sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Đây cũng được coi là một bước tiến nhỏ trong việc nhìn nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính của nhà nước ta trong tình hình xã hội hiện nay.
b) Về đăng ký kết hôn:
- Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật HN & GĐ và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định thì không có giá trị pháp lý.
- Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn.
Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền thì khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ ngày đăng ký kết hôn trước.
c) Ngoài ra, Luật mới còn bổ sung về quy định về giải quyết hậu quả của việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (quy định từ Điều 14,15,16), theo đó:
Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN và chung sống với nhau như vợ chồng mà khôngđăng ký kết hôn thì giữa họ không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Quyền, nghĩa vụ đối với con được giải quyết theo quy định của Luật HN&GĐ về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ và con.
Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên, nếu không có thỏathuận thì giải quyết theo quy định của BLDS và các quy định pháp luật khác có liên quan nhưng bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con.
Chương III. Quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng:
Tại Điều 19 Luật mới bổ sung quy định Tình nghĩa vợ chồng: vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế,văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.
* Về tài sản chung của vợ, chồng:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy địnhchưa rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch vềtài sản chung, tài sản riêng.
Nay, Luật HNGĐ 2014 quy định tất cả các trường hợp liên quan đếntài sản chung của vợ chồng đều phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực. Điều này sẽ làm giảm thiểu sự tranh chấp tài sản sauly hôn của các cặp vợ chồng trong tình hình hiện nay. Cụ thể:
Tại Khoản 1 Điều 33 Luật mới bổ sung quy định hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳhôn nhân là tài sản chung của vợ chồng.
Tại Khoản 2 Điều 35: Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng nếu đối tượng của giao dịch là bất động sản, động sản mà theo quy định củapháp luật phải đăng ký quyền sở hữu.
Tại Điều 36 quy định: Trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản.
Chương IV: Chấm dứt hôn nhân:
a) Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn được quy định tại Điều 51, cụ thể:
- Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
- Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
- Chồng không có quyền nêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi conưới 12 tháng tuổi.
So với Luật HN-GĐ năm 2000, Luật mới bổ sung thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn.
Theo đó, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì từ ngày 1-1-2015, cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Chồng không có quyền ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng (Khoản 2 Điều 51).
b) Quy định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
- Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
- Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con (đây là điểm mới, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con).
- Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
ChươngV: Quan hệ giữa cha mẹ và con:
Luật HN-GĐ 2014 bổ sung quy định về xác định cha, mẹ, con. Cụ thể:
Điều 93 quy định: người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ đượ cáp dụng theo quy định về xác định con chung của vợ chồng.
Điều 94 quy định: con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.
Ngoài ra, Luật mới chính thức cho phép mang thai hộ, đây là quy định mới, việc bổ sung quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thể hiện tính nhân văn sâu sắc, đáp ứng nhu cầu làm cha mẹ chính đáng của các cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, tuy nhiên việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải đáp ứng đủ các điều kiện được quy định quy định cụ thể tại Điều 95 của Luật mới như:
- Phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
- Vợ chồng chỉ được quyền nhờ người mang thai hộ khi có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
-Người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.